Breaking News

Vai trò của tình cảm gắn kết và lạm dụng trong tuỳ biến điều trị trong hội chứng đau âm đạo khi kích thích với góc nhìn nam học – xuattinhsom

xuattinhsom.org xin trân trọng giới thiệu đến quý khách chủ đề Vai trò của tình cảm gắn kết và lạm dụng trong tuỳ biến điều trị trong hội chứng đau âm đạo khi kích thích

Vai trò của tình cảm gắn kết và lạm dụng trong tuổi thơ đối với kết quả điều trị đau cơ tử cung gợi (PVD) được thúc đẩy. Nghiên cứu mới đề xuất rằng những yếu tố như tình cảm gắn kết và lạm dụng tuổi thơ có thể ảnh hưởng đến điều trị PVD, nhất là trong trường hợp phương pháp điều trị tương tác như liệu pháp cặp đôi.

**Vai trò của tình cảm gắn kết và lạm dụng thời thơ ấu trong kết quả điều trị Viêm hậu môn gợi (PVD)**

**Giới thiệu**
Viêm hậu môn gợi (PVD) là dạng phổ biến nhất của vulvodynia, xảy ra ở khoảng 8%-10% phụ nữ ở mọi lứa tuổi trên toàn thế giới. Đây là một tình trạng đau mãn tính dẫn đến tình dục đau đớn vì PVD gây đau nhọn, cắt hoặc cháy rát cho phụ nữ mỗi khi áp lực được áp dụng lên hậu môn (PVD có thể khiến việc đưa tampon vào cơ thể trở nên đau đớn).

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối liên hệ giữa các rối loạn tình dục như PVD và các yếu tố xa như tình cảm gắn kết và lạm dụng thời thơ ấu. Tình cảm gắn kết mô tả các thái độ/xu hướng của cá nhân trong mối quan hệ mà họ thường phát triển như một kết quả của sự nhất quán và chất lượng của sự chăm sóc họ nhận được khi còn nhỏ. Tình cảm gắn kết có thể lan rộng từ lo âu đến tránh. Lo âu gắn kết được đặc trưng bởi nỗi sợ bị bỏ rơi và nhu cầu gần gũi quá mức trong các mối quan hệ người lớn, trong khi tránh gắn kết liên quan đến sự không thoải mái với sự gần gũi cảm xúc và sự tự lập cực độ.

Lạm dụng thời thơ ấu, hoặc lạm dụng tình dục, thể chất hoặc tinh thần của trẻ dưới 18 tuổi, cũng đã được liên kết với rối loạn tình dục. Với những mối liên hệ đã được chứng minh này, một nhóm nghiên cứu đã phát triển một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên để xem xét ảnh hưởng của tình cảm gắn kết và lạm dụng thời thơ ấu đối với hiệu quả của hai phương pháp điều trị PVD (lidocaine ngoại sử và liệu pháp cặp vợ chồng học cách hành vi) cho một nhóm 108 phụ nữ mắc PVD và đang ở trong mối quan hệ tình cảm vào thời điểm của nghiên cứu.

**Phương pháp**
108 người tham gia được ngẫu nhiên được phân vào chương trình điều trị 12 tuần của (A) lidocaine ngoại sử hoặc (B) liệu pháp cặp vợ chồng. Một số biến số được đánh giá một lần vào đầu nghiên cứu hoặc tại ba điểm trong quá trình: trước điều trị, sau điều trị và tại theo dõi 6 tháng. Người tham gia đã hoàn thành các bảng câu hỏi sau cho nghiên cứu:

– Bảng câu hỏi về Kinh nghiệm trong các Mối quan hệ Gần gũi – Phiên bản Rút gọn được sử dụng để đo lường tình cảm gắn kết.
– Bảng câu hỏi Trauma thời thơ ấu (CTQ) – Phiên bản Rút gọn đánh giá các trường hợp lạm dụng tinh thần, thể chất hoặc tình dục trong thời thơ ấu, và/hoặc xao lạc tinh thần hoặc thể chất.
– Bảng đo lường Hài lòng Tình dục Toàn cầu đo lường sự hài lòng với đối tác hiện tại và mối quan hệ tình dục của người tham gia.
– Bảng Đo lường Sự lo âu Tình dục Nữ – Phiên bản Điều chỉnh được sử dụng để đo lường sự lo âu tình dục.
– Bảng Đo lường Chức năng Tình dục Nữ đánh giá mức độ hoạt động tình dục của người tham gia.

**Kết quả**
Kết quả của thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên này cho thấy rằng cả tình cảm gắn kết và lạm dụng thời thơ ấu đều là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến kết quả điều trị cho PVD, đặc biệt khi nói đến phương án điều trị giữa cá nhân cao cấp như liệu pháp cặp vợ chồng. Như tác giả của nghiên cứu đã nói, “Ở bất kỳ thời điểm sau điều trị hoặc theo dõi 6 tháng, trong điều kiện liệu pháp cặp vợ chồng, phụ nữ có mức độ tránh gắn kết cao hơn đã có kết quả kém hơn về sự lo âu tình dục, sự hài lòng và chức năng, trong khi phụ nữ có mức độ lạm dụng thời thơ ấu cao hơn đã có kết quả kém hơn về hài lòng tình dục và chức năng tình dục, so với phụ nữ trong điều kiện lidocaine.”

**Thảo luận & Kết luận**
Vì kết quả của nghiên cứu này hỗ trợ giả thuyết ban đầu của tác giả rằng các yếu tố xa như tình cảm gắn kết và lạm dụng thời thơ ấu có thể ảnh hưởng đến việc điều trị các rối loạn tình dục (trong trường hợp này là PVD), họ khuyến nghị rằng các nhà cung cấp dịch vụ y tế cần xem xét những yếu tố này khi làm việc với bệnh nhân. Thông tin này có thể đặc biệt quan trọng khi xem xét các phương án điều trị giữa cá nhân như liệu pháp cặp vợ chồng vì những phương án này có thể ít hiệu quả hơn đối với bệnh nhân có bất an trong tình cảm gắn kết hoặc một quá khứ của lạm dụng thời thơ ấu.

Chắc chắn, kết quả của thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên này cần được lặp lại để củng cố ý nghĩa lâm sàng của chúng. Tuy nhiên, chúng gợi ý cách mà các yếu tố giữa cá nhân có thể ảnh hưởng đến quá trình điều trị tốt hơn hoặc tồi tệ hơn.

Tác giả tổng kết, “Nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng phụ nữ mắc PVD với mức độ bất an gắn kết cao và/hoặc lịch sử lạm dụng thời thơ ấu ít hưởng lợi hơn từ những can thiệp cặp vợ chồng không được tùy biến của tính chất cao cấp giữa cá nhân, trong trường hợp này là liệu pháp cặp vợ chồng học cách hành vi cho PVD, và hưởng lợi nhiều hơn từ việc sử dụng lidocaine ngoại sử để cải thiện sức khỏe tình dục của họ. Mặc dù những kết quả hiện tại cần được diễn giải cẩn thận cho đến khi có thêm sự lặp lại, các chuyên gia y tế nên xem xét tình cảm gắn kết và lạm dụng thời thơ ấu khi suy nghĩ về các phương pháp điều trị, vì những biến số này có ảnh hưởng đến các chiều kích cỡ giữa cá nhân của quá trình điều trị, như mức độ tiết lộ, hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ, niềm tin và tuân thủ.”

Hỏi đáp về nội dung bài này

Câu hỏi 1: Phần nào của đề tài nghiên cứu này đề cập đến vai trò của đính kèm và lạm dụng trong tuổi thơ đối với kết quả điều trị của hội chứng đau kinh tử cung?

Trong đề tài nghiên cứu này, phần giới thiệu của nghiên cứu đã đề cập đến vai trò của đính kèm và lạm dụng trong tuổi thơ đối với kết quả điều trị của hội chứng đau kinh tử cung.

Câu hỏi 2: Phương pháp nghiên cứu nào được sử dụng trong việc kiểm tra ảnh hưởng của đính kèm và lạm dụng trong tuổi thơ đến hiệu quả của hai phương pháp điều trị PVD?

Trong nghiên cứu này, 108 người tham gia đã được chia ngẫu nhiên vào một chương trình điều trị kéo dài 12 tuần với hai phương pháp là lidocaine gốc hoặc liệu pháp cặp. Nhiều biến số đã được đánh giá ở ba điểm khác nhau trong quá trình điều trị.

Câu hỏi 3: Kết quả của thí nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên này cho thấy điều gì về vai trò của đính kèm và lạm dụng trong tuổi thơ đối với kết quả điều trị của PVD?

Kết quả của thí nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên này cho thấy rằng cả đính kèm và lạm dụng trong tuổi thơ đều là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả điều trị của PVD, đặc biệt là trong trường hợp liệu pháp cặp.

Câu hỏi 4: Theo tác giả của nghiên cứu, tại sao các nhà cung cấp dịch vụ y tế nên xem xét những yếu tố này khi làm việc với bệnh nhân?

Theo tác giả của nghiên cứu, các nhà cung cấp dịch vụ y tế nên xem xét các yếu tố như đính kèm và lạm dụng trong tuổi thơ khi làm việc với bệnh nhân vì những yếu tố này có thể ảnh hưởng đến quá trình điều trị.

Câu hỏi 5: Kết luận của nghiên cứu đề cập đến điều gì về vai trò của đính kèm và lạm dụng trong tuổi thơ trong việc điều trị PVD?

Kết luận của nghiên cứu cho biết rằng phụ nữ mắc PVD có mức độ đính kèm không an toàn hay có quá khứ về lạm dụng trong tuổi thơ sẽ ít hưởng lợi từ những phương pháp điều trị tương tác cao như liệu pháp cặp, và hơn hưởng lợi từ việc sử dụng lidocaine gốc.

Nguồn thông tin được tham khảo từ trang web: ISSM, The Role of Attachment and Childhood Maltreatment in Provoked Vestibulodynia Treatment Outcomes
Nội dung được biên tập, sáng tạo thêm bởi: Ban biên tập Namkhoa. info

Bài viết được biên tập bởi xuattinhsom.org